Các xét nghiệm dùng chẩn đoán viêm khớp dạng thấp
Chẩn đoán bằng các xét nghiệm viêm khớp dạng thấp được thực hiện khi người bệnh có những dấu hiệu đau nhức khớp, sưng khớp nói chung. Cần phân biệt viêm khớp dạng thấp với những căn bệnh xương khớp khác do cơ chế bệnh khác nhau. Nếu điều trị sai hướng có thể làm trầm trọng hơn tình trạng bệnh.
Những điều cần biết về bệnh viêm khớp dạng thấp
Viêm khớp dạng thấp hay còn gọi là bệnh viêm đa khớp dạng thấp. Đây là căn bệnh tự miễn gây đỏ, sưng khớp, giai đoạn nặng bệnh nhân bị xơ cứng khớp và không thể cử động được bình thường. Nguyên nhân của viêm khớp dạng thấp một phần đến từ di truyền, một số người bị nhiễm trùng lâu năm cũng có thể mắc bệnh. Bệnh viêm khớp dạng thấp thường phổ biến ở nữ giới tuổi trung niên hơn, triệu chứng có thể bị ảnh hưởng bởi yếu tố môi trường, chế độ dinh dưỡng, nghiện hút….
Những vùng khớp bị ảnh hưởng chủ yếu là phần lớn là khớp tay và ngón tay, khớp lưng, khớp bàn chân và khớp gối. Do bệnh bắt nguồn từ tình trạng rối loạn hệ thống miễn dịch nên triệu chứng cũng biểu hiện qua da và dây thần kinh, các dấu hiệu này dễ bị nhầm lẫn với bệnh lupus. Tuy không nguy hiểm đến tính mạnh nhưng viêm khớp dạng thấp sẽ ảnh hưởng lâu dài đến sinh hoạt thường ngày của bệnh nhân.
Viêm khớp dạng thấp có nguy hiểm không?
Bệnh viêm khớp dạng thấp không phải là căn bệnh có thể làm gây tử vong. Tuy nhiên những triệu chứng của bệnh thường sẽ gây ra nhiều ảnh hưởng đến sinh hoạt, khiến người bệnh bị đau nhức, giảm tuổi thọ do những biến chứng nguy hiểm phát sinh. Ở giai đoạn mạn tính thì viêm khớp dạng thấp sẽ gây ra những biến chứng nguy hiểm sau:
- Những căn bệnh tự miễn đều có biến chứng ảnh hưởng đến thị giác, nghiêm trọng hơn là triệu chứng gây tổn thương dây thần kinh thị giác và có thể gây mù lòa cho người bệnh;
- Biến chứng nhiễm trùng xảy ra khá phổ biến ở những bệnh nhân bị khớp dạng thấp , do hệ miễn dịch bị rối loạn nên khả năng nhiễm trùng khớp ở người bệnh sẽ cao hơn , đặc biệt là ở những bệnh nhân dùng thuốc ức chế miễn dịch sẽ gặp phải biến chứng này.
- Những vấn đề trong hệ thống tiêu hóa cũng thường gặp phải khi bệnh nhân bị viêm khớp dạng thấp giai đoạn mạn tính. Người bệnh có thể gặp phải tình trạng đau dạ dày và ruột, do ảnh hưởng từ các loại thuốc kháng viêm có chứa corticoid và chống viêm không steroid.
- Khả năng biến chứng tim mạch tiềm ẩn nhiều mối nguy đe dọa bệnh nhân viêm khớp. Tỷ lệ biến chứng ở tim ở bệnh nhân mắc bệnh lý này cao gấp 50% so với những người bình thường, vì thế người bệnh có nguy cơ đột quỵ và tai biến cao hơn.
- Biến chứng viêm khớp dạng thấp có khả năng gây ra tổn thương dây thần kinh. Những vấn đề người bệnh gặp phải bao gồm tình trạng đau cổ hoặc các vấn đề về liên quan đến cột sống, mất thăng bằng …
- Một số trường hợp bị viêm mạch máu đến từ những nguyên nhân ở xương khớp, đặc biệt là khi viêm khớp dạng thấp, mạch máu của người bệnh sẽ bị thu hẹp, lưu lượng lưu thông máu bị hạn chế, tình trạng này kéo dài sẽ gây ra nhiều biến chứng xấu.
- Ở những bệnh nhân viêm khớp nặng, người bệnh có nguy cơ đối mặt với biến chứng sẹo phổi, điều này có thể gây ra sự tắc nghẽn các đường dẫn khí nhỏ và tăng áp trong phổi. Đồng thời triệu chứng cũng làm tăng nguy cơ biến chứng viêm ở niêm mạc phổi
- Người bệnh viêm khớp dạng thấp có thể bị loãng xương do các tế bào xương bắt đầu thoái hóa. Một số loại thuốc điều trị viêm khớp dạng thấp cũng làm giảm mật độ xương, việc thường xuyên bị đau nhức khớp cũng gây ảnh hưởng đến cấu trúc xương của người bệnh.
Các xét nghiệm dùng chẩn đoán viêm khớp dạng thấp
Xét nghiệm RF và CCP
Chẩn đoán viêm khớp dạng thấp tương đối chính xác qua xét nghiệm RF và CCP. Nếu như người bệnh dương tính với kết quả xét nghiệm này thì khả năng viêm khớp dạng thấp chính xác tương đương 90%. Theo các chuyên gia, sự hiện diện của các yếu tố RF luôn ở mức cao đặc biệt ở những bệnh nhân bị viêm khớp dạng thấp
Xét nghiệm chỉ số ANA
Hình thức xét nghiệm kháng thể kháng nhân (ANA) được chỉ định trong chẩn đoán bệnh viêm khớp nói chung và viêm khớp dạng thấp nói riêng. Đồng thời phương pháp xét nghiệm này cũng được áp dụng cho những bệnh nhân nghi ngờ bị bệnh lupus ban đỏ hệ thống. Khi bệnh nhân mắc bệnh tự miễn như viêm khớp dạng thấp hay lupus ban đỏ thì chỉ số ANA thường thấp, đồng thời nồng độ anti-CCP và RF dương tính.
Thông thường xét nghiệm kháng thể kháng nhân ít khi được áp dụng ở những bệnh nhân bị viêm khớp dạng thấp giai đoạn nhẹ. Bởi xét nghiệm được thực hiện phức tạp và cần nhiều thời gian đưa ra kết quả đánh giá. Các kháng thể này sẽ tấn công cấu trúc bệnh trong của tế bào, được thực hiện khi lấy mẫu máu của bệnh nhân để theo dõi những dấu hiệu tự miễn dịch nhất định. Thông thường đối với những xét nghiệm yếu tố RF và CRP không được thực hiện lại nếu như kết quả dương tính. Đối với chẩn đoán VSS và CRP có thể thực hiện lại để đánh giá mức độ nghiêm trọng hoặc thuyên giảm tình trạng bệnh của bệnh nhân .
Xét nghiệm VSS và CRP
Chẩn đoán viêm khớp dạng thấp dựa trên xét nghiệm CRP , hay còn gọi là xét nghiệm đánh giá Creactive protein. Xét nghiệm dựa trên việc xây dựng độ chính xác của nồng độ protein trong cơ thể, thường là các protein sản xuất tại gan và những dạng viêm cấp tính hoặc viêm tạm thời do nhiễm trùng. Xét nghiệm này đưa ra những kết quả tương đối chính xác, liên quan đến hệ thống bổ thể, một cơ chế bảo vệ của hệ thống miễn dịch.
Tuy nhiên trong một số trường hợp xét nghiệm CRP không phản ánh bất kỳ tình trạng viêm nhiễm nhất định, bởi kết quả này có thể đồng nhất với nhiều bệnh lý khác nhau nhưng giống nhau về cơ chế gây bệnh. Do đó mà xét nghiệm này cũng được áp dụng cho những bệnh nhân bị thấp khớp, viêm khớp dạng thấp, bệnh nhân bị lupus…
Thông thường kết quả CRP dương tính ở nhóm các đối tượng bệnh nhân như: bệnh nhân bị viêm khớp dạng thấp, bệnh thấp khớp, bệnh nhân bị lupus, bệnh nhân ung thư, lao, viêm phổi, nhồi máu cơ tim, ….
Hai xét nghiệm khác có nhạy cao trong phản ứng viêm, đặc biệt các yếu tố này thường tăng đối với những bệnh nhân bị viêm khớp dạng thấp. Ở những bệnh nhân bị viêm khớp dạng thấp có VSS và CRP ở mức độ bình thường có nguy cơ phát triển các tổn thương ở khớp thường thấp hơn so với những bệnh nhân có chỉ số VSS và CRP cao.
Xét nghiệm Anti-CCP
Để chẩn đoán viêm khớp dạng thấp ban đầu bệnh nhân có thể bắt buộc phải thông qua xét nghiệm Anti-CCP, viết tắt anti-cyclic citrullinated. Đây là một dạng xét nghiệm máu tham gia vào quá trình chẩn đoán viêm khớp dạng thấp.
Anti-CCP có thể giúp đưa ra những kết quả nhận diện viêm khớp dạng thấp ở giai đoạn sớm. Nếu như nồng độ anti-CCP trong mẫu xét nghiệm cao tương đương với những tổn thương ở khớp trong mức độ tương tự. Ngược lại nếu như chỉ số chẩn đoán thấp thì người bệnh mới chỉ bước vào giai đoạn tổn thương.
Trong một số trường hợp người bệnh cần phải quan tâm là yếu tố dạng thấp âm tính bởi một số sai lầm trong chẩn đoán có thể xảy ra. Chẩn đoán Anti-CCP dần sẽ thay thế maker RF bởi phương pháp này có độ nhạy cao hơn IgM-RF trong chẩn đoán viêm khớp dạng thấp giai đoạn đầu.
Thông qua xét nghiệm thì bác sĩ phần nào cũng có thể dự đoán sự tiến triển đến giai đoạn nặng hay nhẹ, hay chỉ mới bước vào thời kỳ viêm khớp. Chẩn đoán cũng mang lại những kết quả tương đối chính các ở những người bệnh khỏe mạnh có nguy cơ viêm khớp dạng thấp trên lâm sàng trong tương lai.
Anti DNA và anti-SM
Xét nghiệm Anti DNA và anti SM được chỉ định cho những bệnh nhân nghi ngờ viêm khớp dạng thấp giai đoạn sớm. Đồng thời xét nghiệm này cũng giúp chẩn đoán phân biệt với bệnh lupus – một dạng bệnh tự miễn có triệu chứng tương tự. Bệnh nhân lupus cũng có những kháng thể tương tự cấu tạo từ chất liệu di truyền DNA.
Xét nghiệm bổ thể
Xét nghiệm chẩn đoán viêm khớp dạng thấp dựa trên xét nghiệm bổ thể mang lại kết quả tương đối chính xác . Hệ thống bổ thể có mối liên kết chặt chẽ với hệ thống miễn dịch. Đây là một tập hợp các protein trong máu, nằm trong hệ thống bảo vệ cơ thể. Thông thường các protein nằm trong hệ thống bổ thể sẽ không tham gia vào hoạt động trao đổi chất cho đến khi có một kháng thể liên lết kích thích hoạt hóa hệ thống bổ thể.
Nhờ có hoạt động của hệ thống bổ thể mới có thể phức hợp miễn dịch, điều nỳ có thể xảy ra ở những bệnh nhân lupus. Do hệ thống bổ thể ở bệnh nhân lupus thường suy giảm. Do đó xét nghiệm bổ thể sẽ mang lại kết quả tương đối chính xác để phân biệt viêm khớp dạng thấp va đồng thời theo dõi các triệu chứng của bệnh lupus nói chung.
Xét nghiệm chỉ số Acid Uric
Đây là xét nghiệm viêm khớp dạng thấp được áp dụng phổ biến tại các bệnh viện hiện nay. Axit uric tồn tại trong máu càng cao thì nguy cơ viêm khớp biến thể của viêm khớp là gout sẽ càng lớn. Thông thường ở giai đoạn nồng độ axit uric tăng ở mức độ nhất định, chúng sẽ tồn đọng trong cơ thể dưới dạng muối urat, nguyên nhân gây ra các khối u cục sưng tấy và đau nhức ở khớp.
Thực tế urat là các tinh thể muối, chúng là sản phẩm phân hủy của purines trong sau quá trình chuyển hóa acid uric. Những bệnh nhân bị gout có nguy cơ viêm khớp dạng thấp cao, tuy nhiên đối với bệnh nhân viêm khớp dạng thấp không hẳn sẽ có khả năng mắc bệnh gout. Cần phân biệt triệu chứng giữa hai căn bệnh này để tránh xảy ra sự nhầm lẫn.
Xét nghiệm nhóm HLA
Chẩn đoán khả năng mắc bệnh viêm khớp dạng thấp thông qua xét nghiệm nhóm HLA. Các nhóm HLA này là những protein nằm trên bề mặt tế bào bạch cầu, chúng là yếu tố gây di truyền bệnh thấp khớp. Ở những thể khác nhau mà người bệnh có thể mắc các vấn đề viêm khớp, đau nhức khớp ở những vị trí khác nhau, cụ thể như viêm cột sống dính khớp, hoặc viêm khớp dạng thấp. Để đánh giá chỉ số nhóm HLA, bệnh nhân sẽ được lấy máu để phân tách theo dõi.
Xét nghiệm yếu tố dạng thấp
Xét nghiệm yếu tố dạng thấp hay còn gọi là xét nghiệm RF. Đây là hình thức xét nghiệm định lượng yếu tố dạng thấp trong máu. Đồng thời xét nghiệm này cũng mang ý nghĩa rất quan trọng trong chẩn đoán bệnh viêm khớp dạng thấp giai đoạn sớm.
Thông qua xét nghiệm máu giúp đưa ra kết quả về chỉ số kháng thể RF – chúng được sản xuất bởi hệ thống miễn dịch tự nhiên. Tuy nhiên nếu bạn bị viêm khớp dạng thấp, thay vì kháng thể bảo vệ tế bào khỏi sự tấn công của mầm bệnh thì các kháng thể này sẽ quay ngược lại tấn công chính các mô của cơ thể. Đây là tình trạng xảy ra ở những bệnh nhân bị viêm khớp dạng thấp. Đối với người bình thường thì chỉ số RF là 12U/mL.
Các yếu tố ảnh hưởng đến kết quả xét nghiệm viêm khớp dạng thấp gồm có tuổi tác, các loại thuốc sử dụng ( chủ yếu là nhóm thuốc không steroid, Aspirin). Đối với những bệnh nhân vừa thực hiện tiêm phòng vắc xin hoặc truyền máu cũng có thể nhầm lẫn với kết quả xét nghiệm RF. Ở những bệnh nhân bị béo phì, máu nhiễm mỡ cao, huyết thanh đục đồng thời gây ảnh hưởng đến chỉ số RF trong máu.
Ngoài ra chẩn đoán viêm khớp dạng thấp còn dựa trên tốc độ lắng đọng máu. Đây cũng được xem là xét nghiệm hỗ trợ chẩn đoán viêm. Thông qua xét nghiệm cho thấy tốc độ của các tế bào hồng cầu rơi xuống đáy ống nghiệm. Tuy nhiên kết quả này thường mang tính khách quan cao, bởi tỷ lệ lắng đọng thường chỉ thể hiện tình trạng viêm không đặc hiệu trong cơ thể.
Các xét nghiệm viêm khớp dạng thấp đều thông qua xét nghiệm đường máu để phân tách cụ thể, giúp chuyên gia đánh giá chi tiết những yếu tố kháng thể, hồng cầu hoặc bạch cầu bất thường. Từ những điều kiện chẩn đoán cơ bản mà bác sĩ điều trị có thể giúp chẩn đoán viêm khớp, theo dõi điều trị và theo dõi diễn biến của bệnh. Người bệnh cần thực hiện chẩn đoán sớm khi nhận thấy các dấu hiệu đau khớp, cứng khớp, sưng khớp, khó di chuyển…để được hỗ trợ điều trị càng sớm càng tốt.
Nguyên tắc điều trị bệnh viêm khớp dạng thấp
Bệnh viêm khớp dạng thấp là căn bệnh tự miễn, xuất phát từ những rối loạn trong hệ miễn dịch tự nhiên của cơ thể. Hiện nay vẫn chưa có loại thuốc đặc trị chữa bệnh viêm khớp dạng thấp, thông thường bệnh nhân sẽ được điều trị giảm đau và đối phó với triệu chứng. Kết hợp với hình thức điều trị này, bệnh nhân cũng cần xây dựng thực đơn dinh dưỡng đa dạng, với những thực phẩm phù hợp. Chế độ vận động cũng rất quan trọng, trong đó những nguyên tắc điều trị mà người bệnh cần phải tuân thủ như sau:
Thực phẩm người bệnh cần kiêng
zBệnh nhân bị viêm khớp dạng thấp nên hạn chế dùng các loại đồ ăn nhiều dầu mỡ, nhóm thức ăn nhanh, thực phẩm được nướng hoặc chiên xào. Trong chúng có thành phần chất béo bão hoà gây hại cho sức khỏe và đặc biệt là chúng chứa rất nhiều axit uric, đây là nguyên nhân kích thích phản ứng viêm khiến cơn đau nghiêm trọng hơn.
Đối với các loại thực phẩm có thành phần đạm cao như thịt chó, canh cua, thịt bò cũng là những thức ăn kích thích các đợt viêm khớp dạng thấp. Những thực phẩm có hàm lượng nitrat, photpho cao cũng không phù hợp với người bệnh viêm khớp dạng thấp. Nếu như bổ sung quá mức thì nồng độ canxi trong cơ thể sụt giảm. Từ đó khiến cơ xương, khớp trở nên nhạy cảm và dễ bị sưng viêm hơn. Ngoài ra bia rượu hay thuốc lá cũng là những chất kích thích mà người bệnh cần tránh tuyệt đối.
Thực phẩm người bệnh cần bổ sung
Nguyên tắc dinh dưỡng cho bệnh nhân viêm khớp dạng thấp cơ bản là chế độ dinh dưỡng bổ sung đầy đủ, đa dạng nhưng đảm bảo khoa học. Trong đó thực phẩm được đánh giá tốt nhất cho người bệnh là bông cải xanh, bắp cải và các loại cá. Thành phần sulforaphane và vitamin có trong những thực phẩm này sẽ giúp tăng cường khả năng miễn dịch cho xương khớp.
Thay vì uống và lạm dụng kháng sinh, thuốc giảm đau thì người bệnh cần chủ động bổ sung các loại thực phẩm giàu acid béo omega-3.Đây là nguồn cung cấp kháng thể tự nhiên, giúp điều hòa lại các rối loạn chuyển hóa và hỗ trợ giảm đau. Các axit béo omega-3 này thường tồn tại chủ yếu mỡ cá, như các loại cá thu, cá ngừ, cá hồi… Khi cơ thể được bổ sung đủ nguồn omega-3 thì người bệnh sẽ nhận thấy triệu chứng đau nhức do viêm đa khớp thuyên giảm.
Bổ sung canxi là nguyên tắc quan trọng đối với người bệnh, khoáng chất này giúp giảm đau nhanh và cải thiện các triệu chứng sưng viêm do viêm khớp gây ra. Nguồn vitamin D dồi dào nhất có trong sữa và các sản phẩm từ sữa, bạn cũng có thể bổ sung các loại đậu, hạt để cung cấp canxi tự nhiên.
Trong vận động, chơi thể thao
Nhiều bệnh nhân viêm khớp dạng thấp vì sợ đau nhức mà bỏ qua vận động, đây là nguyên nhân khiến cơ khớp ngàng càng yếu ớt và khiến tình trạng bệnh chuyển biến xấu. Người bệnh nên duy trì các hoạt động cơ bản, tạo ra các cử động để kích thích lưu thông máu. Trong trường hợp cơn đau nhức xảy ra, bạn có thể cử động nhẹ để thay đổi môi trường và không nên để bản thân gắng sức quá mức.
Các chuyên gia bác sĩ cũng đã công nhận các phương pháp luyện tập đơn giản như yoga, đi bộ, kết hợp với massage sẽ giúp bệnh nhân giảm đau nhức hiệu quả. Đồng thời người bệnh cũng nên xem các bài tập luyện này như phương pháp trị liệu tại nhà. Áp dụng hàng ngày 20 – 30 phút, duy trì thường xuyên sẽ đem lại những kết quả tích cực.
Khi luyện tập thì bệnh nhân nên tránh tạo áp lực lên những vùng cơ khớp đang bị bị. Chú ý cử động nhẹ tại những khu vực này, vận động những vùng bộ phận khác xung quanh để kích thích máu lưu thông. Người bệnh nên tham khảo phương pháp luyện tập đúng đắn từ chuyên gia để tránh chấn thương khi tập. Chuyên gia phục hồi chức năng sẽ hỗ trợ bạn tư thế an toàn, kết hợp sử dụng các dụng cụ và thao tác hợp lý để trị liệu giảm đau, hỗ trợ điều trị hiệu quả.
Bài viết đã thông tin về các xét nghiệm viêm khớp dạng thấp được áp dụng tại bệnh viện hiện nay. Nếu như bạn nghi ngờ mình có những triệu chứng của bệnh viêm khớp, nên chủ động thăm khám để được kiểm tra và can thiệp từ ban đầu. Viêm khớp dạng thấp không có thuốc chữa nhưng bệnh sẽ được khắc phục tốt, bệnh nhân sớm lấy lại sinh hoạt bình thường khi tiến hành điều trị ngay từ ban đầu.